Đại học Phan Châu Trinh
Đại học Phan Châu Trinh
Tuyển Sinh Đại Học
Tuyển sinh Đại học 2024
Kết nối với chúng tôi qua Zalo:

Liên hệ tuyển sinh

Gửi email cho chúng tôi:
Gọi hoặc Zalo cho chúng tôi:
Gửi hồ sơ về:
09 Nguyễn Gia Thiều, P. Điện Ngọc, TX. Điện Bàn, Quảng Nam
Theo dõi chúng tôi trên mạng xã hội
Theo dõi chúng tôi trên phương tiện truyền thông xã hội để không bỏ lỡ thông tin quan trọng về đăng ký, học bổng, cơ hội nghề nghiệp hấp dẫn và trải nghiệm đa dạng trong các hoạt động của chúng tôi.

Nghiên cứu mới nhất về các phương pháp điều trị và thuốc chống COVID-19

Jennifer Trần, PharmD, RPh

March 17, 2021, 1:40PM (PT)

Các phương pháp điều trị thường được sử dụng cho COVID-19 và các liệu pháp có giấy phép sử dụng khẩn cấp (EUA)

Trong trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng, chẳng hạn như COVID-19, FDA có thể cấp giấy phép sử dụng khẩn cấp (EUA= EMERGENCY USED AUTHORIZATION ) để giúp cung cấp các loại thuốc và sản phẩm y tế mới hơn cho bệnh nhân. Có EUA không có nghĩa là FDA đã phê duyệt thuốc hoặc sản phẩm. Thay vào đó, mục đích của EUA là giúp bệnh nhân dễ dàng tiếp nhận một phương pháp điều trị tiềm năng mới khi không có lựa chọn nào khác.
Remdesivir (Veklury)
Remdesivir là một loại thuốc kháng vi-rút truyền tĩnh mạch (IV). Vào ngày 22 tháng 10 năm 2020, FDA đã phê duyệt remdesivir (Veklury) để điều trị COVID-19 ở bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên cần nhập viện. Sự chấp thuận chủ yếu dựa trên những phát hiện từ ba nghiên cứu với những kết quả tích cực. 
Đã có những khuyến nghị khác nhau về việc sử dụng remdesivir. Viện Y tế Quốc gia (NIH) khuyến cáo sử dụng remdesivir cho một số bệnh nhân nhập viện với COVID-19 trong khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không khuyến nghị sử dụng nó cho bất kỳ bệnh nhân COVID-19 nào do thiếu dữ liệu.
Remdesivir cũng đang được nghiên cứu kết hợp với các loại thuốc khác. Một nghiên cứu báo cáo rằng những bệnh nhân COVID-19 nhập viện được dùng cả remdesivir và baricitinib (Olumiant) hồi phục nhanh hơn khoảng 1 ngày so với những người chỉ dùng remdesivir (7 ngày so với 8 ngày). Ngoài ra, bệnh nhân có cơ hội cải thiện lâm sàng cao hơn 30% vào ngày thứ 15 khi dùng cả hai loại thuốc cùng nhau. Những bệnh nhân dùng cả hai loại thuốc này cũng ít cần hỗ trợ oxy hơn và ít tử vong ở ngày 29 hơn so với những người chỉ dùng remdesivir (23% so với 28%). FDA đã cấp EUA vào ngày 19 tháng 11 năm 2020 cho baricitini được sử dụng kết hợp với remdesivir cho những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 cần thêm oxy hoặc hỗ trợ thở. NIH hiện khuyến cáo chỉ sử dụng baricitinib với remdesivir nếu không thể sử dụng corticosteroid (như dexamethasone).
Không phải tất cả các nghiên cứu về remdesivir đều có triển vọng. Vào ngày 15 tháng 10 năm 2020, một nghiên cứu ngẫu nhiên lớn từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho thấy rằng remdesivir có ít hoặc không ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19. Tỷ lệ tử vong là khoảng 11% bất kể bệnh nhân có dùng remdesivir hay không. Những kết quả này vẫn chưa được bình duyệt.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, nhãn mở (open-label study) các nhà nghiên cứu đã xem xét gần 600 bệnh nhân nhập viện với các triệu chứng vừa phải của COVID-19, các đối tượng được chia làm 3 nhóm. Một nhóm bệnh nhân được dùng remdesivir trong 5 ngày, nhóm thứ 2 dùng trong 10 ngày và một nhóm là đối chứng (không dùng)và tất cả họ đều được đánh giá vào ngày thứ 11 dựa trên thang điểm 7. Những người dùng thuốc trong 5 ngày có kết quả tốt hơn so với những người không dùng thuốc. Không có sự khác biệt giữa những người đã dùng remdesivir trong 10 ngày và những người không dùng và không có sự khác biệt giữa các nhóm dùng remdesivir trong 5 ngày so với 10 ngày. Nghiên cứu thêm là cần thiết để điều trị bệnh nhân có các triệu chứng COVID-19 vừa phải.
Một nghiên cứu trên 236 bệnh nhân mắc COVID-19 ở Trung Quốc cũng không thấy rằng remdesivir có tác dụng. (Đây là một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, là tiêu chuẩn vàng cho các thử nghiệm lâm sàng). Trong một phân tích cụ thể, nhóm bệnh nhân được điều trị remdesivir trong vòng 10 ngày, có triệu chứng hồi phục nhanh hơn một chút so với những bệnh nhận giả dược. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu nhóm có dùng remdesivir, không có sự khác biệt về thời gian cải thiện so với giả dược. Các nhà nghiên cứu tuyên bố rằng cần có các nghiên cứu lớn hơn để xác nhận kết quả.
Dexamethasone
Dexamethasone là một loại thuốc corticosteroid (steroid) phổ biến đã được sử dụng trong nhiều năm để điều trị nhiều bệnh lý khác nhau, như các bệnh lý tự miễn, các phản ứng dị ứng, bệnh lý nhiễm trùng phối hợp với kháng sinh. RECOVERY, một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên ở Anh, đang nghiên cứu nhiều loại thuốc, bao gồm cả dexamethasone, để xem liệu loại nào có hiệu quả chống lại COVID-19 hay không.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng có tỷ lệ tử vong thấp hơn vào ngày 28 trong số 2.104 bệnh nhân nhập viện với COVID-19 được sử dụng liều thấp dexamethasone hàng ngày (bằng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch) so với 4.321 bệnh nhân không dùng nó (23 % so với 26%, tương ứng). Sự khác biệt này là đáng kể. Thuốc dường như hữu ích nhất cho những bệnh nhân nặng cần thở máy hoặc cần thêm oxy. Không có lợi cho những người có các triệu chứng nặng.
Ngoài ra, dựa trên một phân tích tổng hợp các nhà nghiên cứu đã phát hiện trong bảy thử nghiệm khác nhau, tỷ lệ tử vong thấp hơn ở những bệnh nhân nhập viện dùng một trong ba loại corticosteroid khác nhau - dexamethasone, hydrocortisone hoặc methylprednisolone - so với những người không dùng (32% so với 40%).
Huyết tương từ bệnh nhân hồi phục sau nhiễm Covid-19 ( Convalescent plama = CP )
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2020, FDA đã ban hành đơn đăng ký Thuốc Mới Điều tra Khẩn cấp (eIND) cho việc sử dụng CP để điều trị cho những người mắc bệnh COVID-19. CP được thu thập từ những người đã khỏi bệnh sau COVID-19. Sau đó, nó được truyền sang người đang bị nhiễm coronavirus. Người ta cho rằng các kháng thể được tìm thấy trong huyết tương của người bị nhiễm covid-19 có thể giúp bệnh nhân đang nhiễm coronavirus không lây và nhiễm trùng nặng.
Vào ngày 23 tháng 8 năm 2020, FDA đã ban hành (EUA) CP cho bệnh nhân nhập viện với COVID-19. Điều này không có nghĩa là CP đã được phê duyệt hoặc chứng minh là phương pháp điều trị COVID-19, nhưng nó giúp hỗ trợ dễ dàng hơn cho các nhà sản xuất để lấy huyết tương.
Quyết định này dựa trên dữ liệu ban đầu từ một nghiên cứu của Mayo Clinic trên 35.000 bệnh nhân nhập viện với COVID-19 đã được điều trị. Bài báo vẫn chưa được bình duyệt. Ở ngày thứ 7, tỷ lệ tử vong đối với nhóm được điều trị huyết tương trong vòng 3 ngày sau chẩn đoán là thấp hơn so với nhóm được dùng sau 4 ngày chẩn đoán trở lên. Không có nhóm chứng để so sánh với nhóm này, vì vậy không rõ liệu sự khác biệt về tỷ lệ tử vong thực sự là do điều trị hay do các yếu tố khác. Tỷ lệ tử vong cũng thấp hơn ở những bệnh nhân được điều trị huyết tương có nồng độ kháng thể cao hơn so với huyết tương có lượng kháng thể thấp hơn.
Tuy nhiên Hội đồng của Viện Y tế Quốc gia (NIH) không đồng ý với quyết định của FDA, nói rằng không có đủ bằng chứng để khuyến nghị dùng CP cho COVID-19.
Các nghiên cứu khác cho đến nay về huyết tương dưỡng bệnh cũng chưa có kết quả. Trong một nghiên cứu nhỏ ở Trung Quốc, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng 10 người lớn mắc các triệu chứng COVID-19 nghiêm trọng (như sốt, ho, khó thở và đau ngực) đã cải thiện đáng kể trong vòng 3 ngày sau khi điều trị. So với nhóm đối chứng trong quá khứ (một nhóm ngẫu nhiên bệnh nhân trước đó đã nhập viện vì COVID-19), nhóm được dùng CP đã thấy sức khỏe của họ được cải thiện tốt hơn. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 103 bệnh nhân ở Trung Quốc cho thấy không có sự khác biệt về cải thiện lâm sàng giữa những người nhận CP và những người không dùng. Cũng không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong ở 28 ngày và mất khoảng thời gian như nhau để những người thuộc cả hai nhóm được xuất viện.
Kháng thể đơn dòng (MAB
Kháng thể là các protein được tạo ra bởi hệ thống miễn dịch để giúp chống lại nhiễm trùng. Chúng gắn vào các mầm bệnh, như vi rút và tiêu diệt chúng. Kháng thể đơn dòng (MAB = monoclonal anti-bodies) là kháng thể được tạo ra trong phòng thí nghiệm một cách nhanh chóng khác với cơ thể con người phải mất vài tuần mới tạo ra kháng thể tự nhiên, vì vậy dùng MAB có thể chống lại nhiễm trùng sớm hơn.
Tập đoàn dược phẩm Eli Lilly và Regeneron là hai công ty sản xuất MAB cho điều trị COVID-19, hiện có sản phẩm MAB bamlanivimab (LY-CoV555) và REGN-COV2, tương ứng. Cả hai công ty đã xin phép cho sử dụng khẩn cấp EUA vào đầu tháng 10 và FDA đã ban hành EUA cho cả hai loại thuốc vào tháng 11. AstraZeneca cũng đang bắt đầu các nghiên cứu về sự kết hợp kháng thể tác dụng kéo dài được gọi là AZD7442. Các MAB khác, bao gồm VIR-7831 và sự kết hợp BRII-196 và BRII-198.
Bamlanivimab (LY-CoV555)
Bamlanivimab ngăn chặn vi rút SARS-CoV-2 xâm nhập và lây nhiễm vào các tế bào của con người. Eli Lilly đã báo cáo trong một phân tích ban đầu rằng những bệnh nhân bị COVID-19 mức độ nhẹ đến trung bình, bamlanivimab giảm 2% nhập viện so với những người không dùng nó. Họ đã thử nghiệm ba liều lượng khác nhau. Đến ngày thứ 11, liều 2.800 mg đã giúp loại bỏ vi rút nhanh hơn, nhưng liều thấp hơn và cao hơn thì không. kết quả này không khác với những bệnh nhân dùng giả dược.
Trong một thông cáo báo chí khác, Eli Lilly đã thử nghiệm sự kết hợp của hai MAB (bamlanivimab và LY-CoV016). Những bệnh nhân được điều trị kết hợp có nhiều khả năng có tải lượng virus thấp hơn vào ngày thứ 7 và ít phải nhập viện hơn so với những người không được điều trị. Những nghiên cứu này đang diễn ra và chưa có kết quả đầy đủ.Vào ngày 9 tháng 11 năm 2020, FDA đã ban hành EUA cho bamlanivimab để điều trị COVID-19 mức độ nhẹ hoặc trung bình ở những bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên có nguy cơ nhập viện cao và chỉ điều trị tại khu ngoại trú, vì chưa chứng minh có khả năng điều trị ở bệnh nặng phải nội trú.
Bamlanivimab và etesevimab
Nghiên cứu về bamlanivimab vẫn đang được tiếp tục, bao gồm cả việc sử dụng nó kết hợp với các phương pháp điều trị khác. Vào ngày 9 tháng 2 năm 2021, FDA đã cấp EUA cho việc kết hợp bamlanivimab và etesevimab trong điều trị COVID-19 ở mức độ nhẹ hoặc trung bình ở những bệnh nhân có nguy cơ cao từ 12 tuổi trở lên. Những bệnh nhân được điều trị hợp chất này có kết quả lượng vi rút trong cơ thể giảm thấp xuống vào ngày thứ 11, khác với kết quả khi chỉ dùng với chỉ dùng bamlanivimab. Ngoài ra, tỷ lệ nhập viện và tử vong ở ngày 29 thấp hơn ở những bệnh nhân dùng hợp chất nầy so với những người không dùng.
Casirivimab và imdevimab (REGN-COV2)
REGN-COV2 được gọi là “hỗn hợp kháng thể” vì nó được tạo ra từ sự kết hợp của hai kháng thể đơn dòng, casirivimab và imdevimab. Trong một thông cáo báo chí, Regeneron cho biết REGN-COV2 làm giảm tải lượng vi rút và giảm các triệu chứng sớm hơn ở những bệnh nhân bị COVID-19 ngoại trú.
Kết quả trên được nghiên cứu từ 275 bệnh nhân đầu tiên sử dụng 2,4 gam REGN-COV2, 8 gam REGN-COV2 hoặc giả dược -các triệu chứng lần lượt hết sau 6 ngày, 8 ngày và 13 ngày. Những bệnh nhân chưa phát triển được kháng thể cũng như những bệnh nhân và có lượng vi rút nhiều trong cơ thể, nghiên cứu nhận thấy lợi ích nhất. Một thông cáo báo chí sau đó với dữ liệu từ 524 bệnh nhân khác đã xác nhận những phát hiện này. Nghiên cứu này vẫn đang được tiến hành và chưa có kết quả đầy đủ.
Vào ngày 21 tháng 11 năm 2020, FDA đã ban hành EUA cho casirivimab và imdevimab được sử dụng cùng nhau để điều trị COVID-19 mức độ nhẹ hoặc trung bình ở những bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên có nguy cơ nhập viện cao. Giống như bamlanivimab, những loại thuốc này nên được truyền qua đường tĩnh mạch ở bệnh nhân ngoại trú. Mặc dù casirivimab và imdevimab cũng đang được nghiên cứu trên bệnh nhân nhập viện, nhưng không có đủ dữ liệu để ban hành EUA cho chúng được sử dụng cho bệnh nhân nhập viện tại thời điểm này.
Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dầu FDA đã ban hành EUA, nhưng NIH tuyên bố rằng cả bamlanivimab hay casirivimab và imdevimab đều không nên được coi là tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân COVID-19 tại thời điểm này vì không có đủ dữ liệu.
Các phương pháp điều trị mà NIH khuyến cáo không nên sử dụng đối với COVID-19
Hydroxychloroquine và chloroquine
Hydroxychloroquine và chloroquine là hai loại thuốc đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ để điều trị bệnh sốt rét và các tình trạng tự miễn dịch như viêm khớp dạng thấp và bệnh lupus. Một số nghiên cứu nhỏ ban đầu gợi ý rằng chúng cũng có thể hữu ích để điều trị bệnh nhân nhập viện với các trường hợp nhẹ COVID-19, mặc dầu FDA cũng như NIH khuyến cáo không nên sử dụng chúng để điều trị COVID-19.
Azithromycin
Azithromycin (thường được gọi là Z-pak) là một loại kháng sinh thường được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn như viêm phế quản và viêm phổi. Nó đã được chứng minh là có một số hoạt tính in vitro chống lại các vi rút như cúm A và Zika, nhưng không hoạt động chống lại vi rút coronavirus gây ra MERS.
Một nhóm nghiên cứu đã xem xét azithromycin kết hợp với hydroxychloroquine để điều trị COVID-19. Họ báo cáo rằng 93% bệnh nhân sạch vi-rút sau 8 ngày, nhưng không có nhóm kiểm chứng, vì vậy NIH khuyến cáo không nên sử dụng azithromycin riêng biệt cũng như dùng chung với Hydroxychlorquine trong điềutrị COVID-19.
Tocilizumab (Actemra) và các chất ức chế IL-6 khác
Tocilizumab là một chất ức chế IL-6 được phê duyệt cho bệnh viêm khớp dạng thấp và viêm khớp vô căn ở trẻ vị thành niên. (Cả hai đều là bệnh viêm nhiễm.) Nó hoạt động bằng cách ngăn chặn interleukin-6 (IL-6), một loại protein liên quan đến các phản ứng miễn dịch tự nhiên của chúng ta. IL-6 còn gọi là cytokine (protein tín hiệu) thường cảnh báo các tế bào khác để kích hoạt hệ thống miễn dịch, nhưng khi hệ miễn dịch kích hoạt quá mức có thể gây ra một vấn đề nghiêm trọng đó là cơn bão cytokine, có khả năng gây tử vong do tình trạng viêm nhiễm mất kiểm soát.
Với COVID-19, mọi người có thể có nguy cơ bị bão cytokine khi cơ thể họ tiếp tục tăng cường hệ thống miễn dịch để chống lại nhiễm trùng. Bằng cách ngăn chặn IL-6, tocilizumab giúp làm dịu hệ thống miễn dịch và được cho là cũng giúp quản lý các cơn bão cytokine.
Nghiên cứu về tocilizumab bắt đầu với một nghiên cứu từ Pháp, báo cáo rằng những người dùng tocilizumab cần hỗ trợ liệu pháp oxy cũng như giảm nguy cơ tử vong. Một nghiên cứu khác từ Ý cho thấy những người dùng tocilizumab có tỷ lệ tử vong thấp hơn, mặc dù tỷ lệ bệnh nhân từ cả hai nhóm cần máy thở là như nhau. Mặt khác, tocilizumab ít hiệu quả không cho bệnh nhân viêm phổi giai đoạn đầu, cũng như viêm phổi nặng nhập viện Covid-9. Đó cũng là nghiên cứu giai đoạn 3 của nhà sản xuất.
Các nghiên cứu lớn hơn đã có kết quả trái ngược nhau, mặc dù điều đó có thể một phần là do các loại người khác nhau được đưa vào nghiên cứu. Một nghiên cứu đã xem xét điều trị sớm bằng tocilizumab ở 3.924 bệnh nhân bị COVID-19 nặng tại khoa chăm sóc đặc biệt của bệnh viện (ICU). Những bệnh nhân được dùng tocilizumab trong vòng 2 ngày đầu tiên đến ICU có tỷ lệ tử vong thấp hơn (29%) so với những người không dùng (41%). Mặt khác, một nghiên cứu khác trên 243 bệnh nhân nhập viện với COVID-19 vừa phải cho thấy tocilizumab không có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh nhân cần đặt ống thở (đặt nội khí quản) hoặc tử vong. Vào ngày 28 của nghiên cứu này, 11% bệnh nhân dùng tocilizumab được đặt nội khí quản hoặc tử vong so với 13% bệnh nhân không dùng thuốc - sự khác biệt này không khác biệt về mặt thống kê.
Kevzara (sarilumab), hoạt động tương tự như tocilizumab, cũng đang dùng trong bệnh nhân nhiễm COVID-19. Kết quả ban đầu không hứa hẹn. Họ đã chỉ ra rằng những bệnh nhân có các triệu chứng nghiêm trọng dùng Kevzara thì tệ hơn so với giả dược, nhưng những bệnh nhân có các triệu chứng nghiêm trọng hơn (nguy kịch) được cải thiện hơn so với giả dược. Các nhà sản xuất hiện đang thu hẹp các nghiên cứu của họ để chỉ bao gồm các bệnh nhân COVID-19 trong tình trạng nguy kịch. Gần đây hơn, một thông cáo báo chí từ Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) báo cáo rằng tocilizumab và sarilumab đã giảm nguy cơ tử vong xuống 24% nếu được đưa vào ICU trong vòng 24 giờ và rút ngắn thời gian nhập viện lên đến 10 ngày.
NIH hiện khuyến cáo không nên sử dụng các chất ức chế IL-6, chẳng hạn như tocilizumab hoặc sarilumab, đối với COVID-19 cho những bệnh nhân không thuộc ICU. Vì không có đủ dữ liệu để NIH đưa ra khuyến nghị cho những bệnh nhân nằm trong ICU.
Thuốc ức chế kinase
Chất ức chế Kinase tương tự như chất ức chế IL-6 ở điểm chúng cũng ảnh hưởng đến phản ứng miễn dịch của cơ thể. Bởi vì chúng có thể ngăn chặn các tín hiệu cytokine, người ta tin rằng chúng có thể có vai trò tiềm năng trong việc giúp chống lại các cơn bão cytokine. Một số khác cũng có thể có hoạt tính kháng vi-rút. Nhiều chất ức chế kinase được sử dụng như phương pháp điều trị ung thư, nhưng một số được chấp thuận trong điều trị viêm khớp dạng thấp.
  • Các chất ức chế Kinase đang được xử dụng trong nhiểm COVID-19 bao gồm: Acalabrutinib (Calquence)
  • Baricitinib (Olumiant)

  • Ruxolitinib (Jakafi)

  • Tofacitinib (Xeljanz)

NIH hiện khuyến cáo không nên sử dụng chất ức chế kinase (ngoài baricitinib) đối với COVID-19. Điều này là do chúng ức chế hệ thống miễn dịch một cách rộng rãi và có thể gây khó khăn cho việc chống lại nhiễm trùng. Cần có các thử nghiệm bổ sung để hiểu rõ hơn về vai trò của chúng trong COVID-19. Ví dụ, baricitinib (Olumiant) kết hợp với remdesivir đã được phát hiện để giúp bệnh nhân nhập viện hồi phục nhanh hơn khoảng 1 ngày như đã nêu trong một thông cáo báo chí ở trên.
Interferon
Interferon là các protein truyền tín hiệu (cytokine) thông báo cho cơ thể biết sự hiện diện của virus và tăng cường khả năng phòng thủ. Các nghiên cứu in vitro đã chỉ ra rằng interferon-alfa (IFN-α) và interferon-beta (IFN-β) có hoạt tính kháng vi rút đối với vi rút SAR-CoV-2. Các nghiên cứu nhỏ đã xem xét interferon kết hợp với các liệu pháp điều trị COVID-19 khác nhưng các kết quả khác nhau và khó giải thích do chất lượng của các nghiên cứu thấp. Nhìn chung, cần nhiều dữ liệu hơn.
NIH hiện khuyến cáo không nên sử dụng interferon đối với bệnh COVID-19 nghiêm trọng vì chúng không cho thấy lợi như khi sử dụng trong trường hợp nhiễm coronavirus khác (như MERS hoặc SARS) và có những lo ngại về an toàn. Tuy nhiên, họ cho biết không có đủ dữ liệu để đưa ra khuyến nghị dùng hoặc không dùng interferon-beta cho các trường hợp nhẹ hoặc trung bình.
Kaletra (lopinavir / ritonavir)
Kaletra là một loại thuốc điều trị HIV, đó là hợp chất của lopinavir và ritonavir. Các nghiên cứu trong phòng  thí nghiệm và lâm sàng cho thấy hợp chất này có thể có một số tác dụng với bệnh nhân nhiễm SARS và MERS (nhiễm trùng do các coronavirus khác gây ra). Dữ liệu để sử dụng Kaletra trong COVID-19 bị hạn chế.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên trên 199 người nhập viện với COVID-19, không có sự khác biệt về thời gian cải thiện bệnh giữa nhóm dùng và nhóm không dùng Keletra. Một nghiên cứu nhỏ khác trên 127 người có các triệu chứng COVID-19 nhẹ, chia ra nhóm dùng Kaleta một mình và nhóm dùng Kaletra kết hợp với interferon beta-1b và ribavirin. Họ phát hiện ra rằng nhóm dùng cả ba loại thuốc cải thiện sớm hơn và loại bỏ vi rút nhanh hơn (7 ngày) so với nhóm chỉ dùng Kaletra (12 ngày). NIH hiện khuyến cáo không nên sử dụng Kaletra cho COVID-19.
Ivermectin
Ivermectin là một loại thuốc uống được sử dụng để điều trị nhiễm trùng do ký sinh trùng gây ra. Nó cũng có sẵn dưới dạng kem dưỡng da hoặc kem để điều trị chấy và bệnh trứng cá đỏ. Một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy ivermectin có thể ngăn cản sự sao chép của SARS-CoV-2. Các nghiên cứu nhỏ khác cũng đã được thực hiện, bao gồm một nghiên cứu hồi cứu xem xét biểu đồ y tế của 280 bệnh nhân mắc COVID-19 nhập viện ở Florida từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2020. Những bệnh nhân dùng ivermectin có tỷ lệ tử vong thấp hơn những người không dùng. (13% so với 25%). Tuy nhiên, đây không phải là một nghiên cứu mạnh mẽ và bệnh nhân cũng nhận được các phương pháp điều trị khác có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong. Cần thêm nhiều nghiên cứu để xem liệu liều lượng được nghiên cứu có an toàn và hiệu quả đối với vi rút ở người hay không.
Vào tháng 3 năm 2021, FDA đã ban hành một tuyên bố rằng ivermectin không nên được sử dụng để điều trị hoặc điều trị phòng ngừa COVID-19. Có những rủi ro liên quan đến việc sử dụng ivermectin.Ví dụ ivermectin có thể tương tác với các loại thuốc khác, chẳng hạn như thuốc làm loãng máu và làm tăng nguy cơ chảy máu. NIH hiện không có đủ dữ liệu để khuyến nghị sử dụng ivermectin cho COVID-19.
Thuốc thay thế điều trị COVID-19 có dử liệu tối thiểu
Tamiflu (oseltamivir)
Tamiflu là một loại thuốc kháng vi-rút được sử dụng cho bệnh cúm (cúm). Kết quả từ một bệnh viện ở Vũ Hán, Trung Quốc. Trong số 138 bệnh nhân nhập viện, 124 người dùng Tamiflu cùng với các loại thuốc khác. Đến cuối nghiên cứu, 85 bệnh nhân (62%) vẫn đang nằm viện và 6 người đã tử vong. Tuy nhiên, một số thử nghiệm lâm sàng hiện đang xem xét Tamiflu kết hợp với các loại thuốc điều trị coronavirus.
Avigan (favipiravir) và các loại thuốc kháng vi rút khác. 
Favipiravir (còn được gọi là Avigan) là một loại thuốc kháng vi-rút được phê duyệt ở Nhật Bản và Trung Quốc cho bệnh cúm. Các nghiên cứu trong vivo đã chỉ ra rằng liều cao favipiravir có thể ngăn chặn sự nhiễm của tế bào của con người với SARS-CoV-2.
Hai nghiên cứu ở Trung Quốc đã khảo sát tác dụng của favipiravir so với các thuốc kháng vi-rút khác. Trong một nghiên cứu trên 240 bệnh nhân ở Trung Quốc với các triệu chứng COVID-19 nhẹ, 71% bệnh nhân được dùng favipiravir đã hồi phục sau 7 ngày so với 56% được dùng umifenovir (Arbidol). Một nghiên cứu nhỏ khác ở Trung Quốc đã xem xét 80 bệnh nhân có các triệu chứng COVID-19 nhẹ và thấy rằng favipiravir giúp loại bỏ vi rút nhanh hơn Kaletra (4 ngày so với 11 ngày, tương ứng). Những bệnh nhân dùng favipiravir cũng cho thấy phổi của họ được cải thiện nhiều hơn dựa trên hình ảnh quang tuyến phổi. Các thử nghiệm lâm sàng đầu tiên của Hoa Kỳ đối với favipiravir gần đây đã được chấp thuận để bắt đầu ở Boston.
Các thuốc kháng vi-rút khác đang được khảo sát trong điều trị  COVID-19 bao gồm umifenovir và galidesivir:
Umifenovir (Arbidol) là một loại thuốc trị cảm cúm được sử dụng bên ngoài Hoa Kỳ Như đã đề cập ở trên, nó không tốt bằng favipiravir trong việc giúp bệnh nhân hồi phục trong một nghiên cứu từ Trung Quốc. Một nghiên cứu khác trên 81 bệnh nhân xem xét khoảng thời gian từ khi bệnh nhân có các triệu chứng đầu tiên đến khi xét nghiệm âm tính với coronavirus và kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa những người dùng umifenovir và những người không. Tuy nhiên, nó có vẻ tốt hơn Kaletra trong việc giúp bệnh nhân COVID-19 loại bỏ vi rút. Trong một nghiên cứu nhỏ với 50 người, vi rút không được phát hiện ở bất kỳ bệnh nhân nào đã dùng umifenovir sau 14 ngày, trong khi Vi rút vẫn tồn tại gần 50% đối với Kaletra.
Galidesivir là một loại thuốc mới hiện đang được phát triển cho nhiều loại bệnh nhiễm trùng do vi rút; nó vẫn chưa được chấp thuận cho con người sử dụng. Các thử nghiệm lâm sàng cho galidesivir đang bắt đầu ở Brazil.
Colcrys (colchicine)
Colchicine là một loại thuốc được sử dụng cho bệnh gút. Nó hoạt động theo nhiều cách khác nhau, bao gồm kích hoạt quá trình chống viêm và can thiệp vào các tế bào liên quan đến viêm. Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng colchicine có thể hoạt động tương tự như tocilizumab (Actemra) ở bệnh nhân COVID-19 ở chỗ nó có thể có lợi nếu hệ thống miễn dịch trở nên quá kích hoạt và cơn bão cytokine xảy ra. Một thử nghiệm lâm sàng lớn hiện đang xem liệu colchicine, khi được đưa ra ngay sau khi chẩn đoán COVID-19, có thể làm giảm nguy cơ nhập viện và tử vong hay không.
Ngoài ra, một nghiên cứu trên 105 bệnh nhân ở Hy Lạp cho thấy những bệnh nhân nhập viện được dùng colchicine dường như tốt hơn những người không dùng. Chỉ một bệnh nhân trong nhóm colchicine bị nặng hơn trong bệnh viện (ví dụ, phải thông khí hoặc tử vong) so với 7 bệnh nhân trong nhóm không dùng colchicine. Các thử nghiệm khác trong phòng thí nghiệm cũng được thực hiện, nhưng không có sự khác biệt nào được quan sát thấy. Cần thêm dữ liệu để xác nhận những phát hiện này.
Một số nghiên cứu về COLCORONA, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong, tỷ lệ nhập viện, tỷ lệ nguy cơ với Covid-19 là thấp hơn khi được dùng colchicine so với những người không dùng (tương ứng là 4,7% so với 5,8%). Nhu cầu thở máy cũng thấp hơn ở nhóm colchicine (0,5% so với 1,0%). Tuy nhiên, những phát hiện này không có ý nghĩa thống kê, có nghĩa là chúng có thể xảy ra do ngẫu nhiên.
Phương pháp điều trị được FDA chấp thuận cho coronavirus (COVID-19) là gì?
FDA đã tạo ra một chương trình khẩn cấp mới, Chương trình Tăng tốc Điều trị Coronavirus (CTAP), nhằm tăng tốc độ nghiên cứu để phát triển các phương pháp điều trị COVID-19.
Tại thời điểm này, remdesivir (Veklury) là loại thuốc duy nhất được FDA chấp thuận để điều trị COVID-19, nhưng nó chỉ có thể được sử dụng cho một số bệnh nhân nhập viện, tuy nhiên cũng không có hiệu quả 100%. Bệnh nhân nhập viện cũng có thể được chăm sóc hỗ trợ (chẳng hạn như thở oxy), đăng ký thử nghiệm lâm sàng và được cung cấp thuốc không có nhãn dựa trên hướng dẫn của bệnh viện và đánh giá lâm sàng của bác sĩ. Bệnh nhân có biểu hiện nhẹ nên tự cách ly tại nhà.
Phương pháp chữa trị mới nhất cho Covid?
EXO24 và ALLOCETRA ,cả hai loại thuốc được thử nghiệm bởi các nhà nghiên cứu lâm sàng Do Thái.
Thuốc Covid thử nghiệm đã chữa khỏi 30 trong số 30 trường hợp từ trung bình đến nặng trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I tại bệnh viện Israel. Loại thuốc mới thứ hai cũng cho thấy nhiều hứa hẹn.

1

Tiến sĩ Nadir Arber trong phòng thí nghiệm của mình, nơi EXO-CD24 được phát triển. Ảnh do Trung tâm Y tế Tel Aviv Sourasky cung cấp.

EXO-CD24

Đó là một loại thuốc hít ( inhaler ) thử nghiệm  lâm sàng giai đoàn I được thực hiện tại Trung tâm Y tế Tel Aviv Sourasky, đã chữa khỏi tất cả 30 trường hợp từ trung bình đến nặng.

Được phát triển trong sáu tháng qua tại bệnh viện, EXOCD24 ngăn chặn “cơn bão cytokine” - nơi hệ thống miễn dịch mất kiểm soát và bắt đầu tấn công các tế bào khỏe mạnh - xảy ra trong phổi của 5-7% bệnh nhân Covid-19.

“Cho đến nay, việc chuẩn bị đã được thử nghiệm thành công trên 30 bệnh nhân nặng, trong đó 29 bệnh nhân được cải thiện trong vòng 2-3 ngày và hầu hết họ được xuất viện về nhà trong vòng 3-5 ngày. Bệnh nhân thứ 30 cũng bình phục nhưng sau một thời gian dài hơn ”, bệnh viện thông báo. “Thuốc dựa trên exosomes, [vi túi bào được hình thành từ màng nội thể . Exosomes mang nhiều mRNA và micoRNA hay miRNA, protein, điện giải ] được giải phóng từ màng tế bào và được sử dụng để giao tiếp giữa các tế bào. Chúng tôi làm giàu các exosomes bằng protein 24CD. Tiến sĩ Shiran Shapira, giám đốc phòng thí nghiệm của Giáo sư Nadir Arber, người đã nghiên cứu về protein CD24 trong hơn hai năm thập kỷ. Shapira cho biết: “ CD24 được cung cấp qua đường hô hấp, mỗi ngày một lần, chỉ trong vài phút, trong năm ngày. Phương pháp điều trị thử nghiệm có hai đặc điểm riêng biệt. Đầu tiên là nó ức chế sự bài tiết quá mức của các cytokine. Thứ hai là nó được đưa trực tiếp đến phổi và do đó không có tác dụng phụ toàn thân mà thuốc tiêm hoặc thuốc uống có thể gây ra. Arber nói thêm rằng chế phẩm tiên tiến này “có thể được sản xuất nhanh chóng, hiệu quả và với chi phí rất thấp ở mọi cơ sở dược phẩm trong nước và trong một thời gian ngắn trên toàn cầu”. Hiện nay thuốc được BYT Isael chấp thuận để tiếp tục nghiên cứu giai đoạn 2.

Allocetra

Enlivex Therapeutics đã báo cáo kết quả khả quan từ một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II đa trung tâm đối với thuốc điều trị miễn dịch Covid-19 thử nghiệm Allocetra ở những bệnh nhân Covid-19 nặng và nguy kịch. Chúng tôi đã báo cáo vào tháng 10 rằng năm bệnh nhân chăm sóc đặc biệt Covid-19 đã được xuất viện khỏi Trung tâm Y tế Đại học Hadassah ở Jerusalem sau khi điều trị bằng Allocetra. Chín bệnh nhân Covid-19 nghiêm trọng và bảy bệnh nhân nguy kịch đã được điều trị bằng Allocetra trong thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn II. Mười bốn người trong số họ đã bình phục và xuất viện sau trung bình 5,3 ngày. Thử nghiệm Giai đoạn II ban đầu dự kiến ​​thu hút 24 bệnh nhân nhưng đã “hoàn thành sớm để hỗ trợ các hồ sơ pháp lý được tăng tốc dự kiến ​​về dữ liệu an toàn và hiệu quả tích cực của thử nghiệm,” Enlivex báo cáo. Nhìn chung, 19 trong số 21 bệnh nhân thử nghiệm Allocetra Giai đoạn II và Giai đoạn Ib đã hồi phục và xuất viện sau trung bình 5,6 ngày. Hầu hết các bệnh nhân trong cả hai nghiên cứu đều có các yếu tố nguy cơ từ trước như giới tính nam, béo phì và tăng huyết áp.Giáo sư Vernon van Heerden, người đứng đầu Đơn vị chăm sóc đặc biệt tại Hadassah và điều tra viên chính của cả hai thử nghiệm lâm sàng cho biết: “Kết quả mà chúng tôi đã thấy từ 12 bệnh nhân Covid-19 được điều trị bằng Allocetra cho đến nay. “Các bệnh nhân giai đoạn II đã xuất viện hiện khỏe mạnh. Chúng tôi tin rằng những kết quả thuyết phục này đã chứng minh tính an toàn và hiệu quả của Allocetra ở những bệnh nhân phức tạp này đó là mang lại lợi ích cho bệnh nhân Covid-19 nặng và nguy kịch cũng như những bệnh nhân khác bị bão cytokine và rối loạn chức năng cơ quan trong các chỉ định lâm sàng khác nhau . ” Allocetra hoạt động bằng cách khôi phục sự cân bằng cho hệ thống miễn dịch. Mevorach cho biết Allocetra “có thể có tiện ích như một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả… bất kể đột biến coronavirus cụ thể gây ra cho bệnh nhân và các chỉ định lâm sàng nguy hiểm đến tính mạng, tỷ lệ tử vong cao khác nhau khi mà nhu cầu y tế cao chưa được đáp ứng.”

Nguồn:

https://www.goodrx.com/blog/coronavirus-treatments-on-the-way/ 

https://www.timesofisrael.com/new-israeli-drug-cured-moderate-to-serious-covid-cases-within-days-hospital/ 

 Lược dịch và tóm lược

Bác sỹ Nguyễn Hữu Tùng

Chủ tịch HĐQT Đại học Phan Châu Trinh

PCTU pctu Hội nghị khoa học