Lược dịch: BS CK2 Lê Xuân Túy
Phó phòng QLĐT ĐH Phan Châu Trinh
Nội dung bài được dịch từ bài gốc: Are Food Emulsifiers Associated With Increased Cancer Risk? của Dr Roseline Peluchon và được đăng tải trên https://www.medscape.com/ ngày 23/02/ 2024.
Link truy cập:Tại đây.
Chất nhũ hóa thực phẩm là một trong những chất phụ gia thực phẩm phổ biến nhất. Một nghiên cứu đoàn hệ lớn đã nhấn mạnh mối liên quan giữa việc tiêu thụ một số chất nhũ hóa nhất định và việc tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư vú và tuyến tiền liệt.
Thực phẩm siêu chế biến chiếm một phần quan trọng trong chế độ ăn uống của chúng ta, chiếm khoảng 30% lượng năng lượng tiêu thụ ở Pháp.
Các nghiên cứu dịch tễ học lớn đã liên kết chế độ ăn nhiều sản phẩm siêu chế biến với việc tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đái tháo đường, béo phì và tử vong. Những lời giải thích có thể có cho mối liên hệ này bao gồm sự hiện diện của các chất phụ gia, đặc biệt là chất nhũ hóa. Những chất phụ gia này nhằm mục đích cải thiện kết cấu và thời hạn sử dụng của thực phẩm.
Các nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã chỉ ra rằng chất nhũ hóa làm thay đổi hệ vi sinh vật đường ruột và có thể dẫn đến tình trạng viêm nhẹ. Rối loạn sinh lý và viêm mãn tính không chỉ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh viêm ruột mà còn liên quan đến nguyên nhân của một số bệnh lý mãn tính khác và một số bệnh ung thư ngoài ruột.
Nghiên cứu NutriNet-Santé đã cung cấp thông tin sâu rộng về thói quen ăn kiêng của hơn 100.000 người Pháp tham gia. Một phân tích mới đã được tiến hành, kiểm tra mối liên hệ có thể có giữa sự hiện diện của chất nhũ hóa trong chế độ ăn uống và sự xuất hiện của bệnh ung thư. Dữ liệu từ 92.000 người tham gia (78,8% phụ nữ) đã được sử dụng. Họ theo dõi trung bình 6,7 năm, trong đó có 2604 trường hợp ung thư được chẩn đoán, bao gồm 750 trường hợp ung thư vú, 322 trường hợp ung thư tuyến tiền liệt và 207 trường hợp ung thư đại trực tràng.
Trong nghiên cứu đoàn hệ này, nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng lên khi chế độ ăn có nhiều sản phẩm có chứa chất nhũ hóa được sử dụng rộng rãi trong thực phẩm công nghiệp ở Châu Âu: Carrageenans (E407), mono- và diglyceride của axit béo (E471), pectin (E440), và natri cacbonat (E500).
Đáng chú ý, mức tiêu thụ axit béo mono- và diglyceride (E471) cao nhất có liên quan đến việc tăng 15% nguy cơ mắc tất cả các loại ung thư, tăng 24% nguy cơ ung thư vú và tăng 46% nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. . Mức tiêu thụ carrageenans (E407) cao nhất có liên quan đến nguy cơ ung thư vú tăng 28%.
Trong một phân tích theo tình trạng mãn kinh, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú trước khi mãn kinh có liên quan đến việc tiêu thụ nhiều diphosphates (E450; tăng 45%), pectin (E440; tăng 55%) và natri bicarbonate (E500; tăng 48%). Không tìm thấy mối liên hệ nào giữa việc tiêu thụ chất nhũ hóa và nguy cơ ung thư đại trực tràng. Mặc dù một số mối liên quan đã được quan sát thấy đối với các chất nhũ hóa khác nhưng chúng không tồn tại lâu dài trong các phân tích độ nhạy.
Tuy nhiên, Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu gần đây đã đánh giá rủi ro của chất nhũ hóa và không tìm thấy vấn đề an toàn nào hoặc cần hạn chế tiêu thụ một số chất nhũ hóa hàng ngày, đặc biệt là E471.
Điều chắc chắn là ung thư có nhiều yếu tố và một yếu tố duy nhất (ở đây là tiếp xúc với chất nhũ hóa) sẽ không làm tăng đáng kể nguy cơ. Tuy nhiên, mặc dù không cần thiết đối với sức khỏe con người nhưng chất nhũ hóa lại rất phổ biến trên thị trường toàn cầu. Do đó, nếu mối quan hệ nhân quả được xác định, nguy cơ gia tăng có thể chuyển thành một số lượng đáng kể các bệnh ung thư có thể phòng ngừa được ở cấp độ dân số. Việc xác nhận mối liên hệ nhân quả này sẽ cần phải được thực hiện thông qua các nghiên cứu thực nghiệm và dịch tễ học.